CUỘC CHẠY ĐUA TIẾP SỨC BỀN BỈ SUỐT HƠN 30
NĂM
Kính tặng các
anh chị Ban Điều Khiển học
Nguyễn Tuấn Hoa
Ý tường
nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào quản lý ở nước ta đã
có từ trên 30 năm trước. Và cũng từ đó, cuộc tìm kiếm lời giải đúng cho mục
tiêu hiện đại hóa của nước ta bắt đầu.
Cuộc ra quân bề thế đầu tiên xuất hiện
vào khoảng giữa thập niên 60 với hai hướng chính là nghiên cứu ứng dụng vận trù
học và khai thác máy tính lớn phục vụ điều hành sản xuất, kinh doanh. Những tên
tuổi như Hoàng Tụy, Phan Đình Diệu, Phạm Hữu Sách, Hồ Thuần, Nguyễn Quang Thái,
Nguyễn Bình Thành, Nguyễn Bá Hào, Dương Quang Thiện, Nguyễn Đình Ngọc, Trần
Thành Trai và nhiều người khác đã để lại những dấu ấn như những người khai phá.
Kết quả nghiên cứu mang tính chất toán học đẹp đẽ nhưng không tìm được chỗ đứng
trong cơ chế quản lý bao cấp thời bấy giờ. Ứng dụng máy tính lớn vào quản lý
sản xuất kinh doanh chỉ tồn tại tại một vài đơn vị kinh tế có quy mô lớn ở phía
Nam
do có điều kiện thực hiện.
Vào giữa thập niên 70 một hướng nghiên
cứu khác đầy ngẫu hứng và táo bạo được triển khai dưới sự dẫn dắt của một nhà
khoa học đầy tính cách- nhà điều khiển học Nguyễn Thúc Loan- là “Nghiên cứu xây
dựng hệ thống tự động hóa quản lý các hợp tác xã nông nghiệp” ( được gọi tắt là
chương trình ASU). Một khoa học rất cao (thời đó, ở Liên Xô, lý thuyết tự thích
nghi được dùng nhiều nhất trong điều khiển học vũ trụ) lại được nghiên cứu ứng
dụng vào một trong những nơi có trình độ quản lý thủ công nhất: HTX nông
nghiệp. Vậy mà hai nhóm khoa học gồm tổng cộng 15 người đã “chiến đấu” hết mình
trên bản địa tỉnh Hà Tây trong khoảng thời gian 3 năm (1974-1977) với đề tài
đó. Nguyễn Minh Tuân, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Tuấn Hoa, Vũ Văn Phúc, Lê Viết
Ngư, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Quang Hoan, Lê Huy Thập, Nguyễn Hoài Bão, Đoàn
Phúc, Lê Thanh Phùng, Ngô Kiều Oanh, Nguyễn Xuân Huy và nhiều người khác là
những người xông pha vào cuộc nghiên cứu có một không hai đó. Khách quan mà
nói, kết quả thực tiễn giúp ích cho các HTX không là bao, nhưng ASU lại là một
công trình thành công về nhiều mặt. Thứ nhất, lần đầu tiên, khái niệm hệ thống
thông tin điều hành HTX nông nghiệp được định hình và từ đó có thể phân tích
các trạng thái vận động của HTX. Thứ hai, cơ chế tự thích nghi được ứng dụng
trong xử lý các tình huống và trở thành nền tảng cho nhóm nghiên cứu quy hoạch
vùng kinh tế ( do Ngô Kiều Oanh chủ trì) sau này ứng dụng để tích hợp các thông
tin tài nguyên vùng. Thứ ba, đi sâu vào phân tích hoạt động của một HTX nông
nghiệp tưởng như rất đơn giản, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cần phải
vận dụng rất nhiều lý thuyết mới có thể mô tả được bản chất hoạt động của HTX,
trong số đó, lý thuyết tổ chức, lý thuyết đường chính, lý thuyết săn đuổi mục
tiêu và lý thuyết tự thích nghi được xem là “tứ trụ” và vấn đề cấu trúc tổ chức được xác định là trọng tâm. Sự phát hiện
này giống như duyên nợ gắn bó với những người đi tìm lời giải theo suốt cả cuộc
đời.
Vào đầu thập niên 80, quyết tâm cháy
bỏng của các cán bộ khoa học Việt Nam tự mình thiết kế và chế tạo lấy
máy vi tính đã cuốn cuộc tìm kiếm sang một hướng khác. Dưới sự dẫn dắt của giáo
sư Phan Đình Diệu, nhóm cán bộ khoa học của Viện Tính Toán và Điều Khiển đã
thiết kế và chế tạo thành công chiếc máy vi tính đầu tiên của Việt Nam :
chiếc VT83. Những cái tên như Nguyễn Chí Công, Nguyễn Chí Thức, Nguyễn Văn Tam,
Phạm Quang Oai, Trần Bá Thái, Phạm Gia Hiếu, Bùi Xuân Vinh, Đặng Văn Đức, Huỳnh
Thúc Cước, Nghiêm Mỹ, Phan Minh Tần, Phí Mạnh Lợi, Trần Xuân Thuận… chắc chắn
sẽ còn được nhắc nhiều đến trong lịch sử ngành CNTT Việt Nam. Hướng nghiên cứu
ứng dụng Tin học vào thực tiễn quản lý xí nghiệp được xác định một cách cụ thể
trong các dự án cấp quốc gia xuyên suốt thập niên 80. Những kết quả tin học hóa
của nhóm Vũ Duy Mẫn, Giang Công Thể, Ngô Trung Việt, Lê Văn Bảo và cộng sự
Sinco, Olympic thành phố Hồ Chí Minh và của nhóm ASU với Nguyễn Tuấn Hoa,
Nguyễn Văn Hùng, Đặng Chu Quân, Nguyễn Việt Cường,Trần Thị Phiến, Nguyễn Thúy
Chính, Hoàng Xuân Hiếu, Tạ Bảo Quỳnh và cộng sự thực hiện tại Nhà máy công cụ
số 1 Hà Nội là các sản phẩm tiêu biểu theo hướng này. Một hướng nghiên cứu mang
đậm màu sắc kỹ thuật là điều khiển các quá trình tự động hóa gần các tên tuổi
như Đặng Trần Phú, Nguyễn Bá Dũng, Phạm Thượng Cát, Nguyễn Trung Đông, Vũ Như
Lân… với nhiều công trình lớn mà hệ thống tự động điều khiển lò nung xi măng
Hoàng Thạch có lẽ là nổi bật nhất.
Bắt
đầu từ cuối thập niên 80, lượng máy vi tính nhập vào nước ta tăng lên nhanh
chóng. Sức mạnh của các phương tiện xử lý và truyền thông cũng không ngừng được
cải thiện. Điều này tạo thuận lợi cho quá trình nghiên cứu ứng dụng ngày càng
mạnh hơn. Tuy vậy các ứng dụng tin học ở nước ta đến đầu thập niên 90 vẫn rời
rạc, tự phát và nhỏ bé kể cả quy mô lẫn giá trị đầu tư.
Mọi việc bắt đầu được xem xét một cách
hệ thống và tổng thể chỉ bắt đầu từ 1996 khi Chương trình quốc gia về CNTT được
triển khai nhằm thực hiện Nghị định 49/CP của Chính phủ về phát triển CNTT
trong thập niên 90. Nhiều người nghĩ rằng khi đã có nguồn đầu tư thỏa đáng thì
mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ. Thực tiễn cho rằng không phải như vậy. Sự hăm hở
của giới khoa học vào cuộc với mong muốn triển khai tin học hóa quản lý trên
diện rộng một lần nữa cho thấy đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Thực
tiễn cho thấy quá trình nhận thức các tri thức quản lý và tri thức kỹ thuật của
xã hội suốt 30 năm qua ở nước ta là một quá trình diễn ra khá chậm. Thống kê sơ
bộ cho thấy những người cổ xúy sử dụng máy tính sau cùng đáng buồn lại là những
nhà quản lý và các nhà giáo dục. Ngược lại, sự nôn nóng của các nhà kỹ thuật để
lại dấu ấn rõ nét trên các sản phẩm mang nặng tính chất kỹ thuật rất khó xâm nhập
vào thực tế. Chỉ ở những nơi các nhà quản lý nhận ra vai trò của khoa học và
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và tìm cách ứng dụng chúng thì hình ảnh này mới thay đổi. Điều kiện đủ nằm trong tay những người sử dụng. Ở
Thừa Thiên Huế, sự năng động và quyết đoán của bí thư Tỉnh ủy Hồ Xuân Mãn và
chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Mễ mở rộng đường cho khoa học công nghệ phát
triển đã nhận được những đề xuất ban đầu đầy hứa hẹn: “Thiết kế mở rộng cảng
biển Chân Mây với công suất 120 triệu tấn/năm”, “ Chiến lược phát triển kinh tế
xã hội dựa trên hai trục phát triển chính “Văn hóa- Du lịch” và “ Giao thông
vận tải” tầm cỡ khu vực”, “ Mô hình e- Festival”,… Những chương trình do lực
lượng cán bộ tri thức Thừa Thiên Huế phối hợp với các nhóm khoa học của Trung
tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia đề xuất này đang tạo ra một khối
lượng công việc khổng lồ cho hàng ngàn người tham gia. Đây là lúc mà Trung tâm Công
nghệ phần mềm, Công viên phần mềm và 9 trường đại học ở Huế phát huy sức mạnh
trí tuệ của mình. Phải nhập cuộc thì quan niệm về vai trò động lực của CNTT trong phát triển xã hội mới trở nên rõ ràng.
Hưởng ứng Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” các ngành, các địa phương đang
tích cực triển khai các dự án CNTT. Những câu hỏi hóc búa tồn tại nhiều chục
năm nay như “Ứng dụng CNTT nên bắt đầu từ đâu?”, “Làm thế nào để xây dựng được
nguồn tài nguyên thông tin xã hội?”, “Quan hệ tương tác giữa ứng dụng CNTT và
cấu trúc tổ chức”, “ Vai trò động lực phát triển của CNTT thể hiện như thế
nào?”, “ Chiến lược phát triển CNTT Việt Nam là gì?” … dần dần sáng tỏ.
Sau hơn 30 năm, lực lượng tham gia
phát triển đã lớn mạnh hơn nhiều, thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, từ con số có
thể đếm được lúc khởi đầu đến nay đã có hàng chục ngàn người, không thể kể tên
từng người mà phải nhắc đến họ gắn với những thương hiệu đã và đang tự khẳng
định mình tại thị trường trong nước và quốc tế như FPT, VDC, EIS, VSDC, VASC,
Hài Hòa, AZ, Tinh Vân, Databank, COTA, SPT, CMC, Tân Dân, Việt Khang, Softtech,
SchoolNet, NetNam, Edusoft và hàng trăm tên tuổi khác.
Ngày nay, với các kết quả phát
triển CNTT thành công ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, CNTT được
khẳng định là phương tiện chủ yếu giúp các nước đang phát triển có cơ hội đi
tắt đón đầu từ nền kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiến thẳng lên nền
kinh tế tri thức. Chúng ta đang trong năm bản lề giữa khởi động và tăng tốc.
Với lớp thế hệ phát triền CNTT trẻ trung và đầy nhiệt huyết hôm nay, với nhu
cầu phát triển CNTT rộng khắp trong toàn xã hội, chúng ta có quyền hi vọng rằng
chắc chắn CNTT Việt Nam sẽ đóng góp một phần xứng đáng trong sự
nghiệp hiện đại hóa nước nhà.
Nguyên
Thảo
Báo Sài Gòn Giải phóng số 9200 ngày thứ ba, 11/2/2013
Cần đính chính lại có phải bài này đã đăng vào năm 2003 ?
Trả lờiXóaĐúng bài của Tuấn Hoa được đăng vào năm 2013 vì lễ kỉ niệm 30 năm thành lập ban điều khiển học là vào đầu năm 2004
Trả lờiXóa